Dịch vụ dọn dẹp sổ sách kế toán

Dịch vụ dọn dẹp sổ sách nhanh gọn, chính xác, giá rẻ và chất lượng nhất tại Hà Nội.

Đội ngũ công ty chuyên nghiệp - tư vấn chuyên sâu

Với đội ngũ tư vấn thuế chuyên nghiệp, công ty chúng tôi tự tin là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tốt nhất.

Dịch vụ kế toán trọn gói

Tư vấn miễn phí các vấn đề kế toán mà doanh nghiệp thắc mắc chưa tìm ra hướng giải quyết cả thuế và nội bộ, giúp doanh nghiệp vững bước phát triển.

Thứ Năm, 30 tháng 10, 2014

Sau tháng 2/2015, sẽ đổi thay cách tính chỉ số HNX - Index

Phiên họp thứ 7, Hội đồng chỉ số HNX đã quyết định đổi thay cách tính chỉ số HNX - Index kể từ tháng 1/2015. Nguồn: FinancePlus.Vn

 

>>> Xem thêm:  quyết toán thuế
 

 

Tại phiên họp nói trên, các thành viên Hội đồng chỉ số của HNX đã xem xét định kỳ bộ chỉ số của Sở, song song đánh giá kết quả chạy thể nghiệm chỉ số HNX FF Index trong 10 tháng vừa qua.

Chỉ số HNX FF Index chính thức vận hành từ ngày 2/12/2013 và được xem xét định kỳ hàng quý. Căn cứ quy định tại Bộ Nguyên tắc Xây dựng và Quản lý Chỉ số giá HNX, những cổ phiếu có tỷ lệ tự do chuyển nhượng dưới 5% sẽ bị loại khỏi rổ tính chỉ số HNX FF Index.

Các thành viên Hội đồng đều có chung nhận định chỉ số HNX FFIndex vận hành ổn định và phản ánh sát diễn biến thị trường. Thành ra, Hội đồng chỉ số đã quyết định dùng phương pháp tính chỉ số HNX FF Index để áp dụng xem chỉ số HNX - Index kể từ ngày 01/01/2015. Theo đó, HNX Index sẽ được tính nết dựa trên giá trị vốn hóa thị trường có điều chỉnh tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng của toàn bộ các cổ phiếu niêm yết và giao tiếp trên HNX có tỷ lệ tự do chuyển nhượng lớn hơn hoặc bằng 5%.

 

>>> Xem thêm: làm dịch vụ kế toán

 

Tại cuộc họp, Hội đồng chỉ số cũng đã ấn định thời khắc chính thức ra mắt chỉ số tổng thu nhập đầu tháng 12/2014 và bộ chỉ số trái khoán vào tháng 01/2015. Chỉ số tổng thu nhập TRI - HNX 30 được tâm tính dựa trên chỉ số gốc HNX 30. Cổ tức sử dụng trong phương pháp xem chỉ số này là tổng giá trị các khoản cổ tức bằng tiền mặt của các cổ phiếu trong rổ chỉ số HNX 30. Đây là chỉ số tham chiếu tốt cho các sản phẩm sử dụng hoặc kết nối với chỉ số HNX 30. Chỉ số TRI - HNX 30 sẽ được xem và công bố cuối ngày giao du với điểm cơ sở 100 điểm và ngày cơ sở 03/01/2012 (trùng ngày cơ sở chỉ số HNX 30). Thời khắc ra mắt chỉ số dự định 1 tuần trước thời điểm Công ty quản lý quỹ SSIAM niêm yết chứng chỉ quỹ ETF SSIAM HNX 30 trên HNX.

Bộ chỉ số trái khoán do Kho bạc quốc gia phát hành với nhóm các chỉ số thành phần gồm có chỉ số 2 năm, 3 năm, 5 năm và chỉ số tổng hợp. Mỗi chỉ số này được tính theo giá sạch, giá gộp, và tổng thu nhập. Nguồn giá được thu thập từ giá giao du, giá chào trên Hệ thống giao tế TPCP, giá chào trên Hệ thống đường cong lợi suất và giá được xác định dựa trên định giá từ đường cong lợi suất.

 

>>> Xem thêm: nhận làm báo cáo tài chính
 

 

Hiện giờ, tại HNX, ngoài các chỉ số nói trên còn các bộ chỉ số ngành và bộ chỉ số quy mô. Bộ chỉ số ngành gồm 3 chỉ số: chỉ số ngành tài chính, chỉ số ngành xây dựng và chỉ số ngành công nghiệp. Việc xem xét các chỉ số ngành được thực hành định kỳ theo quý đối với tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng của các cổ phiếu trong mỗi rổ chỉ số ngành. Dữ liệu xem được lấy tại ngày giao thiệp chung cục của quý (ngày 31/03/2014) và được ứng dụng sau ngày giao thiệp rút cục của tháng tiếp theo, tức thị ngày 05/05/2014.

Bộ chỉ số quy mô gồm 2 chỉ số HNX Large Cap Index và HNX Mid/Small Cap Index. Việc xem xét định kỳ được thực hành 6 tháng một lần, bao gồm điều kiện duy trì của các cổ phiếu trong rổ, việc tuyển lựa chứng khoán thay thế trong rổ chỉ số HNX Large Cap Index và tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng của mỗi cổ phiếu thành phần trong rổ chỉ số HNX Large Cap Index và HNX Mid/Small Cap Index. Dữ liệu tính hạnh được lấy trong vòng 06 tháng gần nhất tính đến ngày 31/3/2014.

 

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

Viễn thông Viettel đã chạy bệnh “cồng kềnh” như thế nào?

Giám đốc điều hành Viettel, ông Nguyễn Mạnh Hùng.

Bộ máy nhân công của Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) đã bắt đầu trở nên ì ạch và cồng kềnh, như chính trông coi của Tổng giám đốc Nguyễn Mạnh Hùng.

Phải chăng, Viettel, một trong rất ít tập đoàn Nhà nước làm ăn hiệu quả tạm gian qua, cũng sẽ không thoát khỏi “căn bệnh” thường thấy của doanh nghiệp quốc gia?

 

>>> Xem thêm:  nhận làm báo cáo tài chính cuối năm



Trước câu hỏi trên của VnEconomy, ông Nguyễn Mạnh Hùng nói:

- Một công ty khi to ra sẽ khó tránh được kềnh càng, ậm ạch, bởi khi đó phần lớn người quản lý có xu thế sinh ra nhiều quy định, quy trình nhằm tăng cường quản lý, thế nhưng thực chất lại làm cho bộ máy nặng ra, chậm đi.

Doanh nghiệp khi to cũng khó thiết kế cho từng con người, từng bộ phận được rành mạch. Hoặc các bộ phận không rõ ràng, chồng lấn lên nhau. To ra sẽ có xu thế tuyển người nhưng không khắt khe, nên bộ máy cứ tăng dần và cồng kềnh.

Đo cách khác để làm kiểu khác

Cuối năm ngoái ông san sớt, bộ máy quản lý, nhân sự của Viettel giờ cũng đang ậm ạch và công kềnh, giờ thì sao rồi?

Chúng tôi nhận trả máy đã bắt đầu kềnh càng và ậm ạch, và năm vừa rồi, Viettel đã giải câu chuyện đó, trước tiên là giảm bộ máy cơ quan.

Trong một tổ chức, bộ máy cơ quan nếu so với một cơ thể người thì nó là cái bụng. Cái bụng mà to, mà béo thì thường là người có bệnh. Các tổ chức có vấn đề thì bao giờ cái bụng cũng to.

Viettel khi nhìn lại cũng to thật. Có lúc bộ máy quản lý cấp trung lên tới gần 1.000 người. Đây là bộ máy trung chuyển mệnh lệnh từ trên xuống và ý kiến từ dưới đi lên.

Vì thế, nếu bộ máy này càng to thì càng chậm, làm cho hệ thống không am hiểu. Nó cũng là bộ máy sinh ra các quy trình, quy chế, vì vậy khi to ra sẽ có xu thế sinh ra rất nhiều thủ tục và làm tổ chức kém linh hoạt đi.

Viettel vừa rồi làm hai đợt tinh giảm bộ máy quản lý cấp trung, và hết đợt thứ hai thì bộ máy này sẽ giảm hơn một nửa, chỉ còn trên 400 người.

Cùng với việc giảm nhân sự, chúng tôi cũng định nghĩa lại việc của cơ quan là gì và thiết kế lại tổ chức, để tập trung vào các công việc như tư vấn, định hướng, xây dựng cơ chế, chính sách, kiểm tra, đào tạo. Dựa trên thiết kế đó mới rà soát, phân bổ lại nhân sự.

Rất nhiều người ở trên tập đoàn có kinh nghiệm khi xuống các đơn vị cấp dưới thì mang lại hiệu quả tốt hơn, do họ vừa có lý luận, vừa có tầm nhìn, lại có thực tế nên đề xuất chuẩn xác hơn, hiệu quả hơn.

Thứ nữa, chúng tôi bắt buộc mình phải đo năng suất cần lao và hàng năm đều đặt ra đích năng suất cần lao phải tăng từ 15% trở lên. Nếu đo hiệu quả bằng doanh thu thì chưa hẳn đã tốt. Chả hạn, bán một cái iPhone khoảng 20 triệu đồng nhưng thực chất thì giá trị mang lại rất nhỏ. Vì thế nếu đo bằng doanh thu thì hiệu quả sẽ rất cao.

Tuy nhiên, năng suất của Viettel đo bằng doanh thu trừ uổng trước lương. Đó mới là giá trị thực sự do mình tạo ra. Phép đo này chính xác hơn so với đo bằng doanh thu khá nhiều. Nếu năng suất không tăng thì nép phải giảm người. Và quy định về năng suất lao động như thế thì bộ máy sẽ bớt kềnh càng, bớt ậm ạch đi.

Ngoại giả, trong quá trình điều tiết, thiết kế lại để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, Viettel đã có phát hiện khá quan yếu là tính giá trị tăng thêm.

Cụ thể là gì vậy?

tỉ dụ như năm ngoái Viettel tạo ra 1.000 tỷ đồng, nếu năm nay doanh thu vẫn là 1.000 tỷ đồng, có vẻ to lắm và vẫn cảm thấy ổn. Nhưng chúng tôi lại không nghĩ vậy, mà với Viettel, như vậy là năm nay anh chỉ tạo ra 0 đồng.

Còn nếu tạo thêm 1 tỷ - nghĩa là 1.001 tỷ đồng - thì giá trị tăng thêm của anh mới là 1%; nếu tạo ra 1.100 tỷ đồng, giá trị tăng thêm của anh là 10%. Nếu đo như vậy, tác động tâm lý sẽ khác.

Nếu kế hoạch năm nay là 1.100 tỷ đồng và thực hành đạt 1.050 tỷ đồng thì theo cách cũ, chúng ta đạt 95,45% kế hoạch; còn theo cách mới chúng ta chỉ đạt 50/100, tức 50% kế hoạch.

Khi chúng ta đo bằng giá trị tăng thêm thì bộ máy ép phải hiệu quả hơn, vì nó là cái mới, phải nghĩ ra cái mới, phải có sản phẩm mới, thị trường mới, khách hàng mới, và đó mới đích thực là sự sáng tạo mới. Khi tạo ra giá trị mới thì bộ máy phải cần lao kiểu khác, phải vắt óc ra mà nghĩ.

Và như thế tự nó sẽ điều chỉnh, để trở nên không ì ạch.

Thời kì qua, Viettel “dính” phải một số vụ lùm xùm, tạo ra những bức xúc nhất quyết cho một số người dùng, như trong đăng ký dịch vụ, trừ tiền của khoản, khuyến mại… Liệu đây có phải là miêu tả của bộ máy cồng kềnh và ậm ạch không?

Đúng là Viettel vừa rồi bị một số việc này việc kia như: lăng xê chưa đủ độ minh bạch, khuyến mại lập lờ, … Khi thị trường cạnh tranh thì mọi người phải núm tăng doanh thu, cũng có lúc làm quá trớn và gây ảnh hưởng tới một số khách hàng.

Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, đó không phải là môn phái Viettel, không phải là văn hóa Viettel, không phải là sự chỉ đạo từ lãnh đạo tập đoàn.

Khi nhìn thấy có những dấu hiệu như thế thì Viettel đã chỉnh đốn quyết liệt trong nội bộ, không chỉ tại Viettel Telecom mà là quờ tập đoàn. Tôi yêu cầu, luôn phải đặt lợi quyền khách hàng lên trước, vì khách hàng yêu quý mình sẽ áp với mình.

Còn lừa dối khách hàng dù chỉ một lần thì họ sẽ nhận ra và họ không thiếu những chọn lọc khác. Chưa kể tới mối hiểm nguy của việc truyền miệng những thông báo không tốt về Viettel sẽ còn hiểm hơn.

Như vậy, lợi thì ngắn hại thì dài. Thành thử, mới đây tôi cho soát lại sờ soạng các chương trình khuyến mại, cách khuyến mại, các sản phẩm, quờ những gì không ăn nhập và có thể ảnh hưởng tới khách hàng là bỏ tất.

Tôi cũng đề nghị các đơn vị thành lập các kênh thông tin để hấp thụ ý kiến của khách hàng, trao thưởng cho những ý kiến xác đáng, giúp Viettel sửa lỗi trong chính sách, quy định, bộ máy của mình.

Theo chủ quan của ông, với sự đổi thay trên, liệu có thể nói Viettel đã tạm hết cồng kềnh chưa?

Mãi mãi không bao giờ hết kềnh càng được. Bao giờ một tổ chức cũng có những ì ạch riêng, cồng kềnh riêng, diệt hết chỗ này thì nó lại sinh ra chỗ kia. Nó như bệnh muôn thủa của bất kỳ tổ chức nào.

Chỉ có điều mình nhìn thấy thì mình lại điều chỉnh. Nhưng, sự ì ạch của bộ máy đôi khi cũng có cái hay của nó. Vì nó giữ cho bộ máy ổn định nhất thiết. Hẳn nhiên sự ậm ạch đó phải nằm ở mức chấp thuận được.

 

>>> Xem thêm: công ty dịch vụ kế toán



“Căn bệnh của số lớn”

Một thực tiễn, lâu nay, người ta vẫn thường cho rằng, khối doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty thường có bộ máy quản lý cồng kềnh, kém hiệu quả?

Doanh nghiệp nào cũng thế. Kể cả doanh nghiệp tư nhân hay những doanh nghiệp hàng đầu như Samsung, Nokia thì họ cũng cồng kềnh không kém gì mình, thậm chí còn hơn mình.

Bởi vậy mới có những đợt thải hồi vài chục ngàn viên chức mà chúng ta vẫn thấy báo chí đưa tin. Với Viettel, chúng tôi luôn tự chủ động để thay đổi nên không phải đối mặt với việc phải cắt giảm nhân sự. Viettel tăng năng suất cần lao không phải bằng cách thải hồi nhân viên mà bằng cách tạo ra công việc mới.

Chính nên đây là căn bệnh của số lớn, chứ không phải của riêng doanh nghiệp quốc gia.

Trên thực tế, một tổ chức lớn có những cách vận hành tương đối giống nhau. Kể cả những doanh nghiệp tư nhân chưa lớn, cỡ 1.000 người, thì vẫn có những câu chuyện ậm ạch. Ông chủ doanh nghiệp tư nhân 1.000 người cũng làm sao nhìn thấy mặt nhân viên cấp dưới cùng và cũng chẳng thể nghĩ ra cách quản lý để cho viên chức thứ 1.000 làm hết công suất.

Bộ máy do người lãnh đạo thiết kế ra, không có quy định bức nào. Các công ty to ra thì hiển nhiên sẽ sinh ra quan lại, sinh ra ì ạch, đó là căn bệnh cố hữu thì phải tìm cách chữa nó. Anh là người thiết kế ra nó, anh hoàn toàn có quyền đổi thay, điều chỉnh.

Nhưng người ta ít nhìn doanh nghiệp tư nhân như vậy?

Vì nhiều lúc mình nhìn doanh nghiệp Nhà nước cũng hơi định kiến. Bây chừ cứ lấy ra một doanh nghiệp quốc gia, rồi xuống tận nơi xem, mổ xẻ, rồi mang “ông” tư nhân ra so sánh xem sao. Nhưng tôi nghĩ chắc mọi người cũng chưa làm việc đó. Do vậy, mà cả tầng lớp nghĩ cứ doanh nghiệp Nhà nước là kém hiệu quả.

Hay có phải lên đường từ một số doanh nghiệp “bị để ý nhiều”, kiểu như EVN?

Cũng không đánh giá EVN như thế được vì có công ty nào để so sánh đâu, phải có công ty khác để so sánh thì mới biết chứ. Thí dụ như ngoài Viettel thì còn có Vietnammobile, Saigontel, hay Beeline trước đây…, là các công ty cộng tác quốc tế, doanh nghiệp có vốn nước ngoài, nhưng xét về mặt hiệu quả thì chênh nhau đến ngàn lần.

Chúng tôi hiện lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu là hơn 40%. Lợi nhuận trên doanh thu là 20%, trong khi các doanh nghiệp kia thì đang lỗ.

Muốn mổ xẻ thì phải mang con số ra, dĩ nhiên là với chỗ nào có cạnh tranh. Còn những chỗ không cạnh tranh thì không biết so sánh thế nào.

Như điện lực hiện giờ lợi nhuận chưa cao hoặc có những năm bị lỗ là do quốc gia định giá. Nếu quốc gia định giá thấp, thậm chí dưới giá thành thì lỗ là đúng. Khi có sự quản lý về giá thì rất khó đánh giá doanh nghiệp ấy hiệu quả hay không hiệu quả. Nếu như vứt ra thị trường thì mới đánh giá được ai hiệu quả. Đánh giá doanh nghiệp độc quyền là rất khó.

Sự ậm ạch, kềnh càng và hạn chế phát triển của khối doanh nghiệp quốc gia còn được trông vì có quá nhiều “suất ngoại giao”? Ở Viettel thì sao, nếu ông có thể san sớt?

Doanh nghiệp quốc gia hay doanh nghiệp tư nhân cũng là một tổ chức trong một xã hội, cũng có quan hệ tầng lớp. Có khi doanh nghiệp tư nhân còn nhiều quan hệ hơn. Nó là một hiện tượng xã hội.

Thứ hai, trong một tổ chức có rất nhiều việc, có những việc đòi hỏi anh học ở Harvard nhưng cũng có những việc chỉ cần lao động phổ quát như pha trà, photocopy. Vấn đề là anh bố trí như thế nào, toàn Harvard thì tổ chức cũng không hoạt động được, mà toàn cần lao phổ thông thì tổ chức đó chết.

Nên chi, vấn đề là chúng ta phải đẩy các doanh nghiệp Nhà nước phải sáng tạo, phải tạo ra giá trị, phải cạnh tranh, đặt ra cho nó những đích và ngày càng cao hơn về các chỉ số lợi nhuận trên vốn, trên doanh thu, trên năng suất cần lao.

Nhưng cũng có một vấn đề được quan hoài là, một số lãnh đạo doanh nghiệp lại cho rằng, mức lương giờ đối với lãnh đạo là thấp, thậm chí không đủ để giữ người tài hoặc kích thích năng lực sáng tạo, phát triển. Trong khi đó, rất đông quan điểm nhóng, lãnh đạo không ít các tập đoàn, tổng công ty được trả lương cao so với hiệu quả mang lại. Ông trông coi hai luồng quan điểm đó như thế nào?

Dễ làm lắm. Giờ chỉ cần làm một nghiên cứu, như ngành viễn thông, thì xem quỹ lương chiếm khoảng bao lăm phần trăm doanh thu hoặc doanh thu trừ tổn phí. Nghiên cứu một vài nước gần giống mình thì sẽ tìm ra con số đó.

Trong quỹ đó thì lương của giám đốc điều hành hay ban Tổng giám đốc chiếm bao nhiêu phần trăm doanh thu hoặc doanh thu trừ tổn phí. Hoặc cũng có thể khảo sát được mức lương tuyệt đối, làng nhàng của các doanh nghiệp viễn thông lớn, coi con số đó là thị trường và mang ra để áp dụng, so xem cao hay thấp.

Còn không có tiêu chuẩn thì chẳng biết cao hay thấp.

Theo tôi, lương là một cơ chế thị trường vì khi cạnh tranh nhau phải vấn nguồn lực và nó tự hình thành mức lương cho ngành ấy. Quốc gia hoàn toàn có thể có những nghiên cứu đó, tìm ra mức lương nhàng nhàng của ngành và cho doanh nghiệp Nhà nước hưởng mức đó, cũng không khăng khăng phải cho hưởng mức cao nhất, đương nhiên là doanh nghiệp quốc gia phải có lãi.